Cần sớm tháo gỡ khó khăn trong thực hiện Luật Thi hành án dân sự
Luật Thi hành án dân sự (được sửa đổi, bổ sung năm 2014) và các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo dựng một hành lang, khung khổ pháp lý vững chắc, ổn định, nâng cao hiệu lực, hiệu quả cho việc triển khai hoạt động thi hành án dân sự (THADS) trên toàn quốc.
Cục Thi hành án dân sự tỉnh làm việc với Đoàn khảo sát Dự án JICA về Luật Thi hành án dân sự.
Thời gian qua, kết quả công tác THADS đã được ghi nhận, đã và đang góp phần tích cực vào việc bảo vệ tính nghiêm minh của pháp luật, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, khuyến khích phong trào khởi nghiệp và thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội của đất nước cũng như của từng địa phương.
Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng pháp luật, có rất nhiều quy định tại Luật Thi hành án dân sự; Nghị định số 62; Nghị định 33 vẫn chưa quy định cụ thể, chưa có sự thống nhất, thậm chí là còn trái nhau gây ra rất nhiều khó khăn trong thực tiễn hoạt động thi hành án, dẫn đến việc thi hành án tồn đọng và kéo dài, ảnh hưởng quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan làm phát sinh khiếu nại, tố cáo trong thi hành án dân sự cần phải sớm được nhận diện, đánh giá, nhằm sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hơn hệ thống các quy định pháp luật về thi hành án dân sự; nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác THADS; đáp ứng tốt hơn yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Điều đó được thể hiện ở rất nhiều những quy định, trong phạm vi bài viết này xin trích nêu một số quy định điển hình như sau:
Thứ nhất, tại điểm i khoản 2 Điều 35 Luật Thi hành án dân sự (được sửa đổi, bổ sung năm 2014) quy định: Bản án, quyết định quy định tại khoản 1 Điều 35 mà có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp về thi hành án” thì thuộc thẩm quyền thi hành của Cục Thi hành án dân sự tỉnh. Tuy nhiên, tại khoản 1 Điều 50 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm 2016 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung bằng Nghị định số 33/2020/NĐ-CP ngày 17 tháng 3 năm 2020 của Chính phủ quy định: “Trường hợp việc thi hành án đang do cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện tổ chức thi hành cần yêu cầu tương trợ tư pháp thì cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện lập hồ sơ ủy thác tư pháp và gửi cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh để thực hiện việc ủy thác tư pháp”. Như vậy, Luật Thi hành án dân sự và Nghị định hướng dẫn thi hành đều quy định về ủy thác tư pháp thi hành án dân sự nhưng có nội dung không thống nhất với nhau: Luật quy định các vụ việc “có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp về thi hành án” thì thuộc thẩm quyền thi hành của Cục Thi hành án dân sự tỉnh, còn Nghị định lại quy định cấp huyện vẫn có thẩm quyền giải quyết vụ việc liên quan đến tương trợ tư pháp.
Điều này dẫn đến mâu thuẫn trong phânđịnh thẩm quyền – vụ việc liên quan dến ủy thác thuộc thẩm quyền của Ccuj hay Chi cục cấp huyện. Mặt khác,không quy định rõ trường hợp nào áp dụng điểm i khoản 2 Điều 35 Luật Thi hành án dân sự (được sửa đổi, bổ sung năm 2014), trường hợp nào Tại khoản 1 Điều 50 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm 2016 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung bằng Nghị định số 33/2020/NĐ-CP ngày 17 tháng 3 năm 2020 của Chính phủ.
Thứ hai, trong thời gian qua, rất nhiều vụ việc liên quan đến vấn đề chia tài sản chung trong thi hành án dân sự mà quan điểm giữa các ngành Kiểm sát, Tòa án và Thi hành án dân sự trên địa tỉnh Gia Lai nói riêng và cả nước nói chung đã có rất nhiều quan điểm khác nhau, thậm chí là trái chiều; cấp dưới không đồng nhất với cấp trên như: Áp dụng khoản 1 Điều 74 Luật Thi hành án dân sự, sửa đổi bổ sung năm 2014 hay áp dụng điểm c, khoản 2 Điều 24 Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015; có hay không điểm c, khoản 2 Điều 24 Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 trái với khoản 1 Điều 74 Luật Thi hành án dân sự, sửa đổi bổ sung năm 2014.
Theo hệ thống ngành Kiểm sát trên địa bàn tỉnh Gia Lai đều cho rằng áp dụng khoản 1 Điều 74 Luật Thi hành án dân sự còn điểm c, khoản 2 Điều 24 Nghị định 62/2015/NĐ-CP là trái luật; trong khi đó Tòa án nhân dân tỉnh theo quan điểm của ngành Kiểm sát, còn Tòa án nhân dân cấp huyện thì lại thực hiện theo điểm c, khoản 2 Điều 24 Nghị định 62. Ở khía cạnh này, được phân tích một cách cụ thể như sau: Theo quy định tại Điều 74 Luật Thi hành án dân sự thì điều luật chỉ quy định chung về việc phân chia tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung với người khác chứ không có quy định rõ ràng về việc phân chia tài sản chung của vợ, chồng. Để cụ thể hóa quy định này được áp dụng dễ dàng hơn, tạo điều kiện cho Chấp hành viên xử lý nhanh vụ việc thì tại điểm c khoản 2 Điều 24 Nghị định số 62 đã hướng dẫn rõ hơn về việc phân chia tài sản chung của vợ, chồng, đó là: “Chấp hành viên xác định phần sở hữu của vợ, chồng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình và thông báo cho vợ, chồng biết; Trường hợp vợ hoặc chồng hoặc các thành viên hộ gia đình không đồng ý với việc xác định của Chấp hành viên thì có quyền yêu cầu Tòa án phân chia tài sản chung trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được thông báo hợp lệ. Hết thời hạn này mà không có người khởi kiện thì Chấp hành viên tiến hành kê biên, xử lý tài sản và trả lại cho vợ hoặc chồng hoặc các thành viên hộ gia đình giá trị phần tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng của họ”.
Như vậy, theo hướng dẫn của Nghị định số 62 thì người có thẩm quyền phân chia tài sản chung của vợ, chồng là Tòa án và Chấp hành viên nhưng thực tế chủ yếu là Chấp hành viên thực hiện. Bởi hiện nay các Tòa án cấp huyện trên địa bàn chỉ thụ lý giải quyết trong trường hợp vợ hoặc chồng không đồng ý với việc phân chia tài sản của Chấp hành viên và có khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết, còn nếu vợ hoặc chồng không đồng ý với việc phân chia tài sản của Chấp hành viên nhưng không có khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết thì Tòa án cho rằng không làm phát sinh thủ tục giải quyết tại Tòa án cho nên cuối cùng cũng do Chấp hành viên tiến hành kê biên, xử lý tài sản theo quy định (không đồng ý với việc phân chia tài sản nhưng cũng không có khởi kiện dẫn đến vụ việc bị bế tắc nếu Chấp hành viên không thực hiện kê biên, xử lý).
Ở khía cạnh thứ hai, có hay không điểm c, khoản 2 Điều 24 Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 trái với khoản 1 Điều 74 Luật Thi hành án dân sự, sửa đổi bổ sung năm 2014. Theo quan điểm ngành Kiểm sát trên địa bàn tỉnh Gia Lai đều cho rằng việc áp dụng điểm c, khoản 2 Điều 24 Nghị định 62/2015/NĐ-CP là trái Luật và các vụ việc áp dụng điểm c, khoản 2 Điều 24 Nghị định 62/2015/NĐ-CP thường bị viện kiểm sát kháng nghị (Chấp hành viên không có quyền chia mà phải khởi kiện ra tòa). Tuy nhiên, hầu hết các vụ việc liên quan đến phân chia tài sản chung trong đó có phân chia tài sản chung của vợ chồng thì các cơ quan thi hành án trên địa bàn tỉnh đều vận dụng điểm c, khoản 2 Điều 24 Nghị định 62/2015/NĐ-CP. Mặt khác, nếu Nghị định trái luật thì thẩm quyền xác định thuộc về Quốc hội, quy định của Nghị định trái luật thì quy định đó phải bị hủy bỏ, nhưng Quốc hội và các ngành tư pháp Trung ương chưa rà soát để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, thống nhất giúp các cơ quan áp dụng để giải quyết vụ việc là đúng pháp luật.
Ba là, khoản 3 Điều 104 Luật Thi hành án dân sự (được sửa đổi, bổ sung năm 2014) quy định: “Trường hợp người được thi hành án không đồng ý nhận tài sản để thi hành án thì Chấp hành viên ra quyết định giảm giá tài sản để tiếp tục bán đấu giá. Nếu giá trị tài sản đã giảm bằng hoặc thấp hơn chi phí cưỡng chế mà người được thi hành án vẫn không nhận để trừ vào số tiền được thi hành án thì tài sản được giao lại cho người phải thi hành án quản lý, sử dụng. Người phải thi hành án không được đưa tài sản này tham gia các giao dịch dân sự cho đến khi họ thực hiện xong nghĩa vụ thi hành án”. Khi giá trị tài sản đã giảm bằng hoặc thấp hơn chi phí cưỡng chế mà người được thi hành án nhận để trừ vào số tiền được thi hành án thì trừ bao nhiêu vì giá trị tài sản đã bằng hoặc thấp hơn chi phí cưỡng chế; trường hợp giao lại tài sản cho người phải thi hành án quản lý, sử dụng thì hướng giải quyết tiếp theo như thế nào chưa được quy định cụ thể.
Bốn là, tại điểm a khoản 1 Điều 58 Luật Thi hành án dân sự (được sửa đổi, bổ sung năm 2014) quy định: “Giao cho người phải thi hành án, người thân thích của người phải thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 40 của Luật này hoặc người đang sử dụng, bảo quản”. Tuy nhiên, Luật chưa quy định trường hợp có căn cứ cho rằng người phải thi hành án tiếp tục bảo quản tài sản có khả năng làm hư hỏng tài sản đã kê biên thì không giao cho họ bảo quản mà giao cho tổ chức, cá nhân có điều kiện bảo quản.
Năm là, điểm tại khoản 5 Điều 31 Luật Thi hành án dân sự (được sửa đổi, bổ sung năm 2014) quy định: “Cơ quan thi hành án dân sự từ chối yêu cầu thi hành án và phải thông báo bằng văn bản cho người yêu cầu trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu thi hành án trong các trường hợp sau đây:
– Người yêu cầu không có quyền yêu cầu thi hành án hoặc nội dung yêu cầu không liên quan đến nội dung của bản án, quyết định; bản án, quyết định không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các đương sự theo quy định của Luật này;
Tuy nhiên, tại điểm a, khoản 5 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP ngày 17/3/2020 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự lại quy định: “Cơ quan thi hành án dân sự từ chối yêu cầu thi hành án đối với bản án, quyết định không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các đương sự theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 31 Luật Thi hành án dân sự trong trường hợp bản án, quyết định không xác định rõ khoản phải thi hành hoặc không xác định rõ người phải thi hành án, trừ các trường hợp:
– Giao quyền sở hữu, sử dụng, quản lý tài sản mà tại thời điểm yêu cầu thi hành án, người được thi hành án không được trực tiếp quản lý, sử dụng tài sản
Điều này gây ra rất nhiều khó khăn cho cơ quan thi hành án, bởi trong bản án, quyết định của Tòa án không tuyên người giao tài sản, tức là không có người phải thi hành án, khi ra quyết định thi hành án không có người phải thi hành án.
Ngoài ra, có rất nhiều nội dung, nhiều hoạt động trong thi hành án dân sự chưa được Luật và các văn bản hướng dẫn quy định hoặc quy định không rõ dẫn đến gây ra nhiều khó khăn trong hoạt động tổ chức thi hành án như: Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa quy định về tạm dừng cưỡng chế hoặc tạm hoãn cưỡng chế gây khó khăn cho Chấp hành viên trong quá trình thực hiện. Ví dụ: CHV tạm dừng cưỡng chế vì lý do thời tiết, vì vắng thành viên được mời tham gia cưỡng chế; để giải quyết khiếu nại, tố cáo…; Đối với án tín dụng ngân hàng khi kê biên mà diện tích đất thực tế và diện tích đất theo Giấy chứng nhận có sự khác nhau (phần lớn là ít hơn so với Giấy chứng nhận), Văn phòng đăng ký đất đai cho rằng phải kê biên theo đúng hợp đồng thế chấp nhưng thực tế đất không đủ, gây khó khăn đối với việc cấp Giấy chứng nhận cho người mua tài sản đấu giá hoặc người nhận tài sản để trừ tiền thi hành án;…
Ngoài những vấn đề nêu trên còn rất nhiều quy định còn vướng mắc trong thực tiễn thi hành Luật Thi hành án dân sự, Nghị định số 62; Nghị định 33. Do đó, đề nghị Tổng cục Thi hành án dân sự, Bộ Tư pháp cần tham mưu Chính phủ, Quốc hội sớm sửa đổi, bổ sung hoàn thiện Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn đảm bảo động bộ, thống nhất, rõ ràng, chặt chẽ và chính xác, nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác thi hành án dân sự.
Theo Báo Pháp luật Việt Nam (Cơ quan của Bộ tư pháp)